Javascript là gì? Lịch sử của Javascript

Javascript là gì?

Javascript là một ngôn ngữ lập trình cái thêm các đặc tính tương tác phức tạp vào một website.
Trong nhiều ứng dụng của nó, Javascript có thể được sử dụng dể hiệu lực hóa dữ liệu trên web
form, khởi tạo nội dung mới trong trả lời hành động người dùng, và lưu giữ dữ liệu cái sẽ duy
trì từ một phiên làm việc web tới cái tiếp theo. Javascript là công cụ ngày càng quan trọng
cho nhà lập trình và thiết kế web để tạo các ứng dụng web mạnh mẽ và hữu dụng.

Lịch sử Javascript

Javascript có nguồn gốc của nó vào giữa những năm 90 với sự hình thành của World Wide Web hay
web, cái được phát triển để chia sẻ dữ liệu qua mạng lưới các tài liệu liên kết. Trong thời kì
bắt đầu, web ban đầu được sử dụng cho nghiên cứu kinh viện và không yêu cầu nhiều hơn khả năng
chia sẻ text và ảnh đồ họa giữa các nhà nghiên cứu.
Các doanh nghiệp nhanh chóng nhận ra rằng web có thể là một công cụ mạnh mẽ cho thương mại
điện tử online, bao gồm quá trình hiệu lực hóa dữ liệu khách hàng. Khi Javascript xuất hiện
đầu tiên vào năm 1995, nó được sử dụng dể xử lí nhiều hiệu lực hóa nhất có thể để đẩy nhanh
giao dịch khách hàng. Vậy Javascript là gì và nó so sánh như thế nào với ngôn ngữ lập trình
khác?

Giới thiệu ngôn ngữ scripting

Một ngôn ngữ lập trình là một tập hợp các lệnh hướng dẫn hành động của máy tính. Trước khi
các lệnh này có thể được thực hiện, chúng cần được biên dịch, một quá trình theo đó các lệnh
này được chuyển sang mã máy cái có thể được hiểu bởi máy tính. Việc biên dịch được thực hiện
bởi một chương trình được gọi là trình dịch (compiler). Vì vậy, trước khi bạn có thể làm việc
với một ngôn ngữ lập trình, bạn cần có môi trường làm việc để xây dựng code., test code và
biên dịch nó. Các ví dụ về ngôn ngữ lập trình bao gồm Java, C, C++ và C#.
Một ngôn ngữ scripting thuộc về hạng mục phụ của ngôn ngữ lập trình cái không yêu cầu biên dịch
, mà thay vào đó được chạy trực tiếp từ một chương trình hay script. Ngôn ngữ scripting cần
được dịch, trong đó code được đọc từng dòng một bởi một trình dịch (interpreter) cái quyét
code cho lỗi ngay khi nó chạy. Một trình dịch Javascript được tích hợp vào mọi trình duyệt
web, vì vậy để tạo một chương trình Javascript, bạn chỉ cần một text editor để viết code và
một trình duyệt web để chạy nó.
Cuối cùng, một ngôn ngữ đánh dấu (markup language) là một ngôn ngữ cái định nghĩa nội dung
(content) và cấu trúc (structure) của một tài liệu. Ngôn ngữ đánh dấu phổ biến bao gồm HTML
(Hypertext Markup Language) được sử dụng để định nghía nội dung và cấu trúc của một trang web.
Trong khi đó CSS (Cascading Style Sheets) được sử dụng để định nghĩa trang web đó xuất hiện
như thế nào trên các thiết bị cụ thể. Phần học này tập trung vào kết nối giữa HTML, CSS cái
định nghĩa nội dung và diện mạo của các trang web của bạn, và Javascript cái cung cấp công
cụ để tương tác với các trang web đó (xem ảnh).

javascript

Javascript và ECMAScript

Phiên bản Javascript được thảo luận trong phần học này không giống với cái được giới thiệu
vào năm 1995. Theo năm tháng, phạm vi và sức mạnh của ngôn ngữ này đã phát triển để đáp ứng
nhu cầu thị trường thay đổi cái bao gồm sự tăng lên của một loạt thiết bị từ máy tính desktop
đến mobile phones. Ai quyết định Javascript là gì và nó phát triển như thế nào là phần quan
trọng của câu chuyện này.
Vào lúc ban dầu, Javascript được phát triển bởi trình duyệt Netscape bởi nhà phát triển Netscape
Brendan Eich. Sau đó không lâu, Javascript được hỗ trợ bởi trình duyệt IE của Microsoft dưới
dạng hơi khác Jscript. Cơn đau đầu chính cho những nhà phát triển trong cuối những năm 90
là đụng độ sự khác biệt giữa Javascript và Jscript cũng như bắt kịp những thay đổi đối với
ngôn ngữ khi mỗi trình duyệt theo đuổi thêm các đặc tính và công cụ trình duyệt khác thiếu.
Không giống ngôn ngữ lập trình khác, tại thời điểm đó, không có một tập hợp quản lí đơn các
tiêu chuẩn cho Javascript. Sự phát triển của nó là không thể đoán được như bản thân web.
Chính vì vậy, vào năm 1997, Javascript được đệ trình lên European Computer Manufacturers Association
(ECMA) như một lời đề nghị cho ngôn ngữ scripting tiêu chuẩn cái sẽ làm việc qua một phạm vi rộng
rộng các thiết bị và trình duyệt. Một ủy ban kĩ thuật bao gồm các nhà phát triển từ các trình duyệt chính
được giao nhiệm vụ với mục tiêu phát triển một tập hợp các tiêu chuẩn cho ngôn ngữ. Tiêu chuẩn
kĩ thuật cho ngôn ngữ scripting này được gọi là ECMAScript hay ECMA-262. Javascript chỉ là
một thực thi của tiêu chuẩn ECMAScript, nhưng nó là cái quan trọng nhất.
Mọi năm một phiên bản khác hay đời của ECMAScript được phát hành. Trong một vài năm phát hành,
hầu hết trình duyệt sẽ thực thi những thay đổi trong phiên bản dó, vì vậy trong khi các nhà lập
trình web cần bắt kịp với những thay đổi trong phiên bản ECMAScript gần nhất, họ cũng cần
viết code của họ phù hợp với các trình duyệt hiện tại và các đời trình duyệt cũ hơn. Bảng sau
mô tả các phiên bản gần đây nhất của ECMAScript tại thời điểm viết tut này:

ECMA

Chia sẻ

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *