Các headers, footers và địa chỉ (tiếp tục)
TCP header chứa một số cổng nguồn và đích (1). Các số cổng này cho phép một node đơn có nhiều kết nối mạng duy
nhất. Các số cổng cho TCP (và UDP) trải từ 0 đến 65535. Hầu hết số cổng được gán khi cần cho các kết nối mới,
nhưng một vài số được cung cấp cho các gán đặc biệt, như cổng 80 cho HTTP. (Bạn có thể tìm thấy một danh sách
hiện tại của các số cổng được gán trong file /etc/services trên hầu hết các hệ điều hành như Unix). Một TCP
payload và header phổ biến được gọi là một segment, trong khi một UDP payload và header phổ biến được gọi là
một datagram.
Giao thức IP sử dụng một địa chỉ nguồn và đích (2). Địa chỉ đích cho phép dữ liệu sẽ được gửi tới một node cụ
thể trên mạng. Địa chỉ nguồn cho phép máy nhận dữ liệu biết node nào đã gửi dữ liệu và cho phép máy nhận trả
lời tới máy gửi.
IPv4 sử dụng các địa chỉ 32 bit, cái bạn điển hình thấy được viết như 4 các số chia tách bởi các dấu chấm, như
192.168.10.1. IPv6 sử dụng các địa chỉ 128 bit, vì các địa chỉ 32 bit không đủ cho số các nodes trên các mạng hiện đại.
Các địa chỉ IPv6 thường được viết như các số hex chia tách bởi dấu :, như fe80:0000:0000:0000:897b:581e:44b0:2057.
Các chuỗi dài các số 0000 bị đổ thành hai dấu :. Ví dụ, địa chỉ IPv6 trước cũng có thể được viết như
fe80::897b:581e:44b0:2057. Một IP payload và header phổ biến được gọi là một packet.
Ethernet cũng chứa các địa chỉ nguồn và đích (3). Ethernet sử dụng một giá trị 64 bit gọi là địa chỉ Media Access
Control (MAC), cái điển hình được thiết lập suốt quá trình sản xuất Ethernet adapter. Bạn sẽ thường thấy các địa
chỉ MAC được viết như một chuỗi các số hex chia tách bởi dấu -, như 0A-00-27-00-00-0E. Ethernet payload, bao gồm
header và footer, phổ biến được gọi là một frame.